Thứ Năm, 26 tháng 4, 2018

NGƯỜI THIẾT KẾ NGÔI NHÀ SÀN BÁC HỒ TẠI PHỦ CHỦ TỊCH

Nửa thế kỷ trôi qua, ngôi nhà sàn Bác Hồ tại Phủ Chủ tịch - một di sản văn hoá lịch sử - vẫn được lưu trữ, lưu giữ nguyên trạng như là những ngày cuối với của Chủ tịch Hồ Chí Minh sống và làm việc giữa lòng Hà Nội. Người được vinh dự thiết kế ngôi nhà sàn như thế là kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh.

Ông sinh ngày 3-2-1908 tại thị xã Lạng Sơn (nay là thành phố Lạng Sơn), trong một gia đình có truyền thống học hành đỗ đạt. Ông nội, các chú và cha ông đều làm đến quan tri phủ, chi châu rồi xin về nghỉ hưu trước tuổi để mở trường dạy học. Năm 12 tuổi ông đỗ đầu bậc tiểu học trường Pháp – Việt Lạng Sơn, rồi tiếp tục học tiếp bậc trung học ở trường Bưởi. Năm 1926 ông là một trong số tám người thi đậu vào khoa Kiến trúc trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, ông đỗ đầu trong kỳ thi tốt nghiệp của khoá đầu tiên đào tạo Kiến trúc sư (1926-1931).

Cũng như là những trí thức Việt Nam khác thời bấy giờ, kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh vào đời thật gian truân, vất vả. Sau một thời gian ông tươi xin được vào làm việc công nhật cho tổ chức Công thự ở Hà Nội, giá công rẻ mạt bảy hào một ngày. Ông đã được kiến trúc sư Arthur Kruze (chủ nhiệm khoa kiến trúc) tin cậy, uỷ quyền thiết kế giúp kiến trúc sư Jacques Lagisquet công trình mặt tiền nhà Câu lạc bộ Ba Đình - Hà Nội. Công việc hoàn thành tốt bóng bẩy, được thầy Hiệu trưởng Victor Tardieu biết đến và mùa xuân năm 1933 giới thiệu ông vào làm việc ở Bộ Công Nam triều – Huế; Ông trở thành kiến trúc sư Cung đình Huế dưới sự điều hành của Thượng thư Bộ Công kiêm Mỹ thuật và lễ nghi cắt Văn Toản, sau này là Thượng thư Tôn Thất Quảng. Kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh được giao chuyên về thiết kế tu bổ và xây dựng nội ngoại thất các cung điện, lăng tẩm, thiết kế tươi một số công thự, biệt thự… Công trình nhà nghỉ của Bảo Đại ở Đà Lạt (1939-1943) được dư luận thời bấy giờ đánh giá cao về ý tưởng và giải pháp kiến trúc, kết hợp nhuần nhuyễn kiến trúc Á - Âu, Việt - Pháp. Mọi người đều thấy ở các công trình do ông thiết kế một tài hoa của một kiến trúc sư tài năng kết hợp khéo léo, hài hoà giữa nét dân tộc cùng nét hiện đại, giữa kiến trúc cung đình Việt Nam với kiến trúc loại Pháp.

Là một trí thức say mê cùng nghề nghiệp, có tinh thần dân tộc, ông đã sớm giác ngọ thân phận của một người dân thuộc địa. Điều đó đã hướng ông đến gần cùng cách mạng. Được ông Phan Sinh - một trong những cán bộ cách mạng giác ngộ dìu dắt, tháng 2 năm 1945 ông tham gia Mặt trận Việt minh. Mùa thu năm 1945 ông tham gia cướp chính quyền tại Đà Lạt và được bầu làm uỷ viên Uỷ ban nhân dân cách mạng tỉnh Lâm Đồng. Tháng 9 năm 1946 Uỷ ban nhân dân cách mạng tỉnh Lâm Đồng chuyển ông ra miền Bắc. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông được cử làm Phó Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến hành chính tỉnh Lạng Sơn. Tại đây ông đã thiết kế và trực tiếp chỉ đạo thi công hội trường to bằng tranh, tre, gỗ của tỉnh ở Kéo coong (Thủ phủ kháng chiến của tỉnh Lạng Sơn), xã Tân Văn, huyện Bình Gia. Để tạo được không gian thoáng rộng mà bóng bẩy, qui mô mấy trăm người ngồi họp ông đã sử dụng giải pháp khung sườn hợp lý, không có hệ cột giữa. Ngày 4-5-1948 từ một trí thức yêu nước ông được đứng trong hàng ngũ của Đảng Cộng sản. Năm 1950 ông được điều về lãnh đạo Vụ Kiến trúc, Bộ Giao thông - Công chính. Thực hiện lời dạy của Hồ Chủ tịch trong thư gửi Hội kiến trúc sư lần thứ nhất (24-27/4/1948), ông và kiến trúc sư Nguyễn Cao Luyện - Ban Giám đốc Vụ Kiến trúc đã xây dựng và phát triển tổ chức thiết kế kiến trúc đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ở ATK và soạn thảo Đề cương về kiến trúc phục vụ kháng chiến và sau khi kháng chiến thành công. Nội dung đề cương có nhiều sáng tạo, mang tính hiện thực cao, đã mở ra phương hướng sáng tác tươi cho giới kiến trúc sư cách mạng. Đồng thời cũng đặt ra chương trình nghiên cứu các công trình kiến trúc truyền thống của các tộc Việt Nam ở Việt Bắc, Trung du và đồng bằng sông Hồng.

Sau ngày Thủ đô Hà Nội được giải phóng (10-10-1954) ông tiếp quản Nha Kiến trúc. Ông được giao nhiệm vụ thiết kế Đài liệt sĩ và lễ đài Ba Đình đặt phục vụ cuộc mít tinh của hàng vạn nhân dân Hà Nội đón Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh đạo Đảng và Chính phủ về Thủ đô năm 1955. Công trình này làm bằng tre, gỗ, tháo lắp được, từ thiết kế đến thi công thời gian vừa trong 2 tháng và đến năm 1958 thì lễ đài Ba Đình dược dỡ bỏ đặt xây lại bằng vật liệu kiên cố. Công trình Lễ đài chỉ tồn tại vài năm nhưng đã đặt lại hình ảnh khá sâu đậm trong lòng nhiều người dân Thủ đô.

Từ hình ảnh Đài liệt sĩ ban đầu khởi dựng bằng gỗ ở quảng trường Ba Đình cùng với Lễ đài Ba Đình, kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh đưa ra ý tưởng về một tượng đài Tổ quốc ghi công liệt sĩ có hình trụ vuông cao vút, nhỏ dần theo chiều cao, kết thúc bằng bộ mái cong, chính giữa nổi bật hàng chữ “Tổ quốc ghi công” xếp theo chiều dọc đài, bên dưới có các lớp đế rộng dần, lư hương được đặt trang trọng ở chính giữa, dưới với là hệ bậc tam cấp. Đài liệt sĩ đã khai thác kiến trúc truyền thống vào trong từng chi tiết, tạo sự gần gũi mà trang nghiêm cho mọi người dân Việt Nam. Sau này mẫu Đài liệt sĩ đã được xây dựng bằng gạch ở nghĩa trang Mai Dịch - Hà Nội và được coi là khuôn mẫu đặt cả nước làm theo.

Một vinh dự đặc biệt bất ngờ đến với ông là được giao thiết kế và chỉ đạo thi công một ngôi nhà để Chủ tịch Hồ Chí Minh ở và làm việc. Ông được gặp Bác và trao đổi về thiết kế, cách bố trí cụ thể của ngôi nhà, theo gợi ý của Bác "Ngôi nhà mới sẽ được làm giống như là nhà sàn Bác đã ở trên chiến khu Việt Bắc", nhà "nhỏ đủ một người ở thôi “ và sao cho “tiết kiệm phù hợp với hoàn cảnh nước mình”. Nhà làm bằng thứ gỗ gì, tầng dưới thế nào, chỗ ăn, điểm làm việc sắp xếp ra sao, Bác đều nói rất cặn kẽ, cụ thể "tầng 2 trên gác làm 2 phòng, làm dãy hành lang xung quanh để các đồng chí lãnh đạo đến làm việc với Bác có lối đi. Cầu thang nên làm rộng ra, khi có khách quí đến thăm Bác đủ để 2 người với lên một lúc”. Ông nghĩ “Bác là Chủ tịch nước, lãnh tụ kiệt xuất không những cả dân tộc ta kính yêu mà cả bạn bè quốc tế đều yêu quí kính trọng Người nhưng lại yêu cầu sống trong ngôi nhà quá đơn sơ. Lúc nào Bác cũng nghĩ đến nước ta chưa giàu, dân ta còn khổ, nhân dân miền Nam chưa được giải phóng. Tình cảm lớn của Bác đối cùng dân cùng nước đã cởi gỡ cho người trí thức nhiều vướng mắc về nghề nghiệp và tư tưởng”. Nghĩ đến công việc được giao, ông lo lắng suy tư đặt dựng được ngôi nhà nhỏ đúng được ý Bác, hợp với tình hình, phong cách sinh hoạt giản dị của Bác. Lần đầu tiên trong nghề kiến trúc, ông được giao một nhiệm vụ thiết kế tưởng đơn giản mà sao khó thể hiện đến thế. Thiết kế theo ý Bác thì không đành lòng, mà sang trọng thì Bác không đồng ý.

Vâng lời Bác, lĩnh hội trọn vẹn ý Bác, kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh đã thiết kế hoàn thành ngôi nhà sàn nhỏ có hai gian chính như ngôi nhà sàn tre nứa của Bác ở Việt Bắc, song rộng hơn và có thêm hai đầu hồi, tầng dưới đặt trống thông thoáng đảm bảo thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông đặt giữ gìn sức khoẻ của Bác. Nhưng ông vẫn sợ bản thiết kế bị gạt bỏ, nếu nó tốn kém quá. Chuyển sang giai đoạn thi công, cái khó là thi công vào thời điểm nào cho thích hợp vì thi công sẽ gây tiếng ồn tổn hại tới điểm làm việc của Bác. Việc thi công được tiến hành bên ngoài, sau đó mới mang vào Phủ Chủ tịch lắp ráp. Công việc lắp ráp được tiến hành trong hơn một tháng. Ông cùng các chiến sĩ thuộc đoàn 5 Cục Doanh trại - Tổng cục Hậu cần - Bộ Quốc phòng chịu trách nhiệm thi công, tuy không ai nói ra nhưng cán bộ và chiến sĩ đều có chung một ý nghĩ “bằng mọi cách ngôi nhà phải được cất xong trước ngày sinh nhật Bác”. Một đợt thi đua không cần phát động mà không khí lao động rất khẩn trương, phấn khởi. Ngày 17/5/1958 ngôi nhà được khánh thành. Nhân dịp này Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức một buổi liên hoan nhỏ để cảm ơn kiến trúc sư và anh em thi công, sau đó Chủ tịch Hồ Chí Minh chuyển về ở và làm việc tại nhà sàn. Trong buổi lễ khánh thành Bác khen “Ngôi nhà bóng bẩy thoáng mát. Một gian ở, một gian làm việc cùng diện tích như vậy là được. Nhưng…”. Hiểu được nỗi băn khoăn của Bác, kiến trúc sư vội thưa: “Thưa Bác, so với lời dặn của Bác thì có tốn kém hơn đôi chút ạ!”. Bác cười và bảo “Chú Ninh nói đúng ý Bác, nước ta còn nghèo, dân ta còn khổ, chưa đủ nhà ở, Bác ở thế này là quá sang”. Nhận xét về ngôi nhà sàn của Bác Hồ do kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh thiết kế, kiến trúc sư Đặng thái Hoàng đã viết: “ông nắm rất vững kiến trúc Việt Nam và kiến trúc Á Đông, đã vận dụng một cách nhuần nhuyễn vào ngôi nhà sàn bằng gỗ lợp ngói của Bác Hồ. Có xem xét những mộng, những bờ mái của ngôi nhà này thì ta mới thấy được kiến thức của ông sâu sắc và cách làm việc của ông tỷ mỷ, chi tiết đến mức nào”.

Năm 1960, kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh lại vinh dự được giao nhiệm vụ thiết kế Lễ đài Ba Đình 2 tầng bằng vật liệu kiên cố đặt sử dụng dài lâu. Cùng tinh thần trách nhiệm cao, năng lực sáng tạo dồi dào, ông đã dành cả tâm hồn cho tác phẩm, thể hiện tốt giải pháp không gian, hình khối, đường nét kiến trúc, đáp ứng theo yêu cầu hiện đại, dân tộc, trang nghiêm và giản dị. Lễ đài Ba Đình là một trong những công trình đầu tiên ở miền Bắc dùng gạch làm kết cấu chịu lực chính, về bố cục mặt bằng vẫn trên tinh thần lễ đài gỗ trước đây. Công trình kiến trúc này ngày nay không còn nữa (vị trí Lễ đài là nơi xây Lăng Bác bây giờ) nhưng hình ảnh Bác Hồ đứng trên Lễ đài Ba Đình lịch sử được khắc sâu trong tâm khảm nhân dân ta mãi mãi. Theo kiến trúc sư Đặng thái Hoàng thì: “Ông đã tạo nên một hình tượng tươi mẻ và bất ngờ, nhưng lại gần gũi cùng chúng ta. Ông đã vận dụng những qui luật cao nhất của cái bóng bẩy kiến trúc là thống nhất và biến hoá, nhiều chủng loại và hài hoà để thiết kế công trình. Chủ thể công trình là lễ đài Ba Đình ở chính giữa, có phần bệ là cổng tam quan, có phần tầng hai là khu lễ đài là hành lang cột và kết thúc bằng phần mái bằng. Chủ thể công trình như thế được phù trợ bởi hai khán đài phụ hai bên, càng làm tôn vẻ bóng bẩy của công trình chính. Ánh sáng ở đây rất quan trọng, nhất là vào những buổi sáng công trình tạo thành một tổng thể rất đẹp”. Cụm công trình kiến trúc do cố kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh sáng tác: Lễ đài Ba Đình năm 1955 và 1960; Nhà sàn Bác Hồ đã được Chủ tịch nước tặng Giải thưởng Nhà nước đợt I năm 2001 theo Quyết định số 611/2001/QĐCTN của Chủ tịch nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Nghỉ hưu từ năm 1972, kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh có điều kiện quan tâm nhiều đến công tác đào tạo và đã hướng dẫn nhiều khoá sinh viên trường Đại học Kiến trúc làm đồ án tốt nghiệp. Kiến trúc sư Đoàn Đức Thành nhớ lại: “ khi Bác Hồ qua đời, kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh- Người có vinh dự được Bác Hồ đặt cho cái tên trìu mến “chú kiến ” và được tặng Huy hiệu của Người 2 lần - đã quên ăn quên ngủ sáng tác một phương án Lăng Bác, thể hiện hình khối kiến trúc trong sáng như một hòn ngọc Viễn Đông. Đây cũng là một phương án có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao. Cùng tác phẩm này đủ đặt làm bằng chứng , chứng minh Nguyễn Văn Ninh là một kiến trúc sư tài năng”.

Nhìn lại toàn bộ cuộc đời kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh từ lúc rời ghế trường Mỹ thuật Đông Dương đến lúc qua đời, ông đã sống hết mình với công việc, toàn tâm toàn ý cùng nghề. Ở ông mọi người dễ nhận thấy lòng say mê nghề luôn đi đôi với tài năng, sáng tạo. Trong cuộc sông ông sống rất giản dị, chân thành, độ lượng, yêu lao động, yêu đời và đầy lòng nhân ái cùng đồng chí, đồng nghiệp và những người thân yêu trong hộ gia đình. Kiến trúc sư Trần Hữu Tiềm đã nhận định: “ở kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh điều cao quí nhất mà chúng ta đều ca ngợi, đó là tài năng và phẩm chất đạo đức của ông. Ông sống một cuộc đời giản dị, thanh bạch, liêm kiết. Lúc nào ông cũng giữ một phong cắt bình tĩnh, ung dung, một thái độ thành khẩn, khiêm tốn, trung thực, lạc quan đầy tin tưởng vào thắng lợi của Cách mạng, vào tương lai cuả dân tộc và của phát triển nghệ thuật kiến trúc Việt Nam”. Và năm nay nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngôi nhà sàn Bác Hồ cũng là tròn 100 năm ngày sinh của ông.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét